Tìm hiểu Bàn thờ thông thiên vùng Lục Tỉnh
Ở vùng quê Lục Tỉnh, hầu như nhà nào cũng có đặt một bàn thờ Thông Thiên trước nhà. Gọi là bàn Thông Thiên, bàn Ông Thiên, bàn Phật Thiên, hay bàn Thiện, cách nào cũng đúng.
Dù với bất cứ danh gọi nào, thì mục đích và ý tưởng của cư dân vùng đất này qua bàn thiên đã tạo cho mình một đời sống tâm linh rất phong phú, thanh cao, an lạc!
Trên bàn thiên có một lọ cắm hương bằng sành, đặt ở phía sau cùng, bên cạnh phía tay phải của người nhìn vào là một bình cắm hoa, trước lọ cắm hương đặt một cái dĩa đựng 4 chén chung nước. Nhà nghèo có khi người ta dùng lon sữa bò để cắm hương, dùng cái chai xá xị hay hũ tương để cắm hoa.
Hằng ngày, vào lúc chập tối, chủ nhà đốt ba nén nhang, chắp tay đứng trước bàn thờ khấn vái, cầu Trời ban phước lành, sức khỏe, bình an… hy vọng qua làn khói nhang tỏa lên Trời mang theo những lời cầu khẩn của gia chủ, để nguyện vọng được “thông” đến Trời.
“Bàn thiên” có từ thời khai hoang
Người khai hoang có câu nói “Tiền hiền khai khẩn. Hậu hiền khai cơ”, như nhắc lại cái ngày bỏ vùng Thuận Quảng xa xôi đến xứ sở lạ lùng đàng Trong sông nước mênh mông. Thuở đó con người lưu dân cảm thấy mình cô đơn nhỏ bé trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, chỉ còn biết đặt niềm tin vào đấng thiêng liêng tối cao đó là “Ông Trời”.
Con người ta lúc đó lấy bản thân mình làm chủ thể để suy ra nguyên tắc định hướng Trời đất: Ðông vi tả, Tây vi Hữu, Nam vi tiền, Bắc vi hậu. Nghĩa là hướng Ðông bên trái, Tây bên phải, Nam phía trước, Bắc phía sau mà định hướng cho ngôi nhà. Theo nguyên tắc này, những ngôi nhà đầu tiên dựng lên trên vùng đất mới, luôn quay mặt về hướng Nam.
Ðể mỗi khi bái tế người ta phải quay mặt vô bàn thờ tức là quay mặt về phía Bắc mà hoài niệm tri ân tổ tiên, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Nhớ về tổ tiên Ngũ Quảng.
Ðặt bàn thiên tính từ ngạch cửa nhà cách khoảng 1 trượng (khoảng 4m) cắm cột “bàn thiên” giữa sân nhà nơi trống trải để ngó thẳng lên trời, hướng về phương Nam.
Vật cúng cũng đạm bạc đơn sơ như cơ ngơi của nó: Gạo và muối, ông cha ta rất quý trọng. Ðến đêm ba mươi Tết. Trừ Tịch giao thừa mừng năm mới bàn thiên cũng là nơi thiết lễ “Tống cựu nghinh tân” các ông Hành binh, Hành khiển, vật cúng có khá hơn nhưng không ngoài sản phẩm nông nghiệp.
Theo các kỳ lão thì lời khấn vái trước “bàn thiên” cũng giản dị nhầm cầu nguyện gia đình bình yên khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi làm ruộng trúng mùa mà đối tượng cầu nguyện là “trời đất” và người “khuất mặt khuất mày”.
Sau khi cầu nguyện bàn thờ trong nhà xong, thì ra ngoài Trời chỗ bàn Thông Thiên, lạy 4 hướng mỗi hướng 3 lạy, lạy đứng hay lạy quỳ tùy theo lúc mạnh yếu, nếu không lạy được thì xá 4 hướng mỗi hướng 3 xá.
Ý nghĩa việc thờ Thông Thiên
Từ điển từ ngữ Nam bộ của Huỳnh Công Tín, cắt nghĩa “Bàn Ông Thiên” là bàn thờ trước sân nhà để đặt nhang, đồ cúng, làm bằng một tấm vuông nhỏ được đặt trên một trụ cao ngang tầm với người lớn; “Bàn Thiên: Bàn thờ Trời, Phật ở trước sân nhà ở nông thôn”.
Bàn thờ thường được làm bằng gỗ đơn sơ, gồm một cây cột cao khoảng 1.5 m, phía trên đặt một tấm ván hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 0.4m, khá giả thì đổ cột bê-tông và dán gạch men. Trên bàn thờ lúc nào cũng có một bình hương và 4 ly nước mưa và bình bông nhỏ.
Vào những ngày quan trọng như mồng một, ngày rằm thì có thêm hai chén đựng gạo, muối và mấy dĩa hoa quả. Hằng ngày, vào lúc chập tối, chủ nhà đốt một nén nhang, chắp tay đứng trước bàn thờ khấn vái, cầu Trời ban phước lành, sức khỏe, bình an… hy vọng qua làn khói nhang tỏa lên Trời mang theo những lời cầu khẩn của gia chủ, để nguyện vọng được “thông” đến Trời (thông thiên), để Trời phù hộ cho người thân và gia đình mình.
Ðối với người nông dân, ông Trời được xem là đối tượng có toàn năng, có phép màu và có lòng từ bi để cứu giúp con người, nên mỗi khi gặp tai nạn thì “cầu Trời, khẩn Phật” để cho “tai qua, nạn khỏi”. Trời có khi lại hữu hình, và cũng đồng dạng với con người nên được gọi là “Ông”, ông Trời có mắt.
Bàn Thiên hình vuông tượng trưng cho đất (thuộc âm), lư hương hình tròn tượng trưng cho Trời (thuộc dương). Khát khao vươn đến sự hoàn hảo của người phương Nam được thể hiện thường trực hằng ngày qua hình ảnh bàn thờ Thông Thiên: Có vuông-có tròn, có âm-có dương.
Trong văn chương truyền khẩu của người Việt còn lưu lại tín ngưỡng thờ Trời
“Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp…”
Ðến những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960 ở miệt Tiền Giang và Hậu Giang người ta nghĩ ra cách đúc bàn thờ Ông Thiên bằng xi măng cốt sắt và để bán tại chỗ hoặc có ghe chở bán khắp các làng quê trong vùng. Do vậy sau này, ít thấy bàn thờ ông Thiên làm bằng cây vông, cây gòn, gốc tre…
Tại tiểu bang Cali Hoa Kỳ gần đây thấy xuất hiện một ít bàn Thiên trong khu người Việt sinh sống, dầu hình thức, vị trí bàn thờ không như còn ở quê nhà!
***
Bàn thờ Thiên, tín ngưỡng thờ Trời, đã góp vào sự đa dạng và phong phú của đời sống tinh thần, vào văn hóa phi vật thể của người Việt Ðồng Bằng Sông Cửu Long. Có sự tương đồng, thống nhất với người Việt ở các vùng miền đất nước, vừa có nét riêng của vùng miền Tây Nam.
Bàn thờ thiên, và tín ngưỡng thờ Trời, cho thấy thêm nét riêng văn hóa người Việt ở Ðồng Bằng Sông Cửu Long chính là sự tồn tại trong một không gian xã hội khác với miền Ðông và khu vực khác. Ðó cũng còn là kết quả của sự giao lưu văn hóa giữa người Việt và các tộc Chàm, Tàu, Miên cộng cư trên vùng đất Ðồng Bằng Sông Cửu Long.
Bàn thờ Thiên mang đậm đà tính mộc mạc, giản dị, chân thành của đất phương Nam, gần gũi với đất với Trời. Thờ kính Trời như một đấng tối cao, giãi bày tâm hồn và tin nơi Trời, phó thác cuộc sống riêng tư và gia đình nơi Ông Trời siêu việt hằng quan tâm đến cuộc sống của người dân nhu ca dao:
-Nhờ trời mưa gió thuận hòa
Nào cày, nào cấy trẻ già đua nhau
-Lạy Trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa Nguyễn căng buồm tiến ra
_____
Bài viết: Nam Sơn Trần Văn Chi